Cấy ghép nội tạng là một thủ thuật phẫu thuật trong đó một cơ quan suy yếu được thay thế bằng một cơ quan khỏe mạnh từ người hiến tặng. Cấy ghép nội tạng được chỉ định cho các cơ quan suy yếu do bệnh hoặc chấn thương.
Tuy nhiên, không phải tất cả các cơ quan đều có thể được cấy ghép. Loại phẫu thuật này phổ biến nhất cho tim, ruột, thận, gan, phổi và tuyến tụy. Phẫu thuật cấy ghép nội tạng có thể thay thế nhiều cơ quan.
Các phác đồ sàng lọc trước khi cấy ghép
Do tính chất nguy cơ cao của việc cấy ghép nội tạng và sự thiếu hụt của các tổ chức tài trợ, người được phẫu thuật phải trải qua quá trình sàng lọc nghiêm ngặt để đánh giá.
Do quá trình ghép tạng có phần rủi ro và các cơ quan hiến tặng rất hiếm, người nhận cần phải được sàng lọc các yếu tố có thể ảnh hưởng đến xác suất thành công.
Mô phù hợp
Mô lạ sẽ bị tấn công bởi hệ miễn dịch. Trong trường hợp cấy ghép nội tạng, phản ứng miễn dịch này được gọi là thải ghép. Khi hệ thống miễn dịch tìm thấy một số phân tử trên bề mặt của một tế bào lạ (gọi là kháng nguyên), nó sẽ từ chối tế bào đó.
Các tế bào hồng cầu chỉ có ba kháng nguyên chính xác định các nhóm máu. Chúng được gọi là A, B và Rh. Để tránh bị từ chối trong quá trình truyền máu, các xét nghiệm được thực hiện để đảm bảo các kháng nguyên trong máu của người hiến hoàn toàn phù hợp với người nhận. Thật không may, nguyên tắc này không thể áp dụng cho việc cấy ghép nội tạng vì có quá nhiều kháng nguyên liên quan. Những kháng nguyên này được gọi là kháng nguyên bạch cầu người (HLA) hoặc phức hợp tương hợp chính (MHC) có trên bề mặt của mỗi tế bào trong cơ thể. Kháng nguyên bạch cầu của mỗi người là duy nhất, dẫn đến từng loại mô độc đáo. Vì vậy, các mô của người hiến và người nhận không thể phù hợp hoàn toàn. Ở một số bệnh nhân không còn đủ thời gian để chờ một người hiến phù hợp nhất, các bác sĩ nhắm đến một sự tương thích gần nhất có thể để giảm nguy cơ và mức độ nghiêm trọng của việc từ chối nội tạng, cải thiện kết quả lâu dài. Tuy nhiên, nhờ sự tiến bộ trong liệu pháp ức chế miễn dịch, tỷ lệ cấy ghép nội tạng thành công không còn gắn liền với mức độ phù hợp của các mô.
Trước khi phẫu thuật, bác sĩ sẽ sàng lọc máu người nhận với các kháng thể chống lại các mô của người hiến tặng. Những kháng thể này có thể xuất hiện do truyền máu, cấy ghép nội tạng trước đây hoặc mang thai. Nếu các kháng thể này có trong cơ thể, việc cấy ghép là không thể vì cơ thể sẽ từ chối ngay lập tức. Để loại bỏ hoặc ngăn chặn các kháng thể này, bác sĩ có thể yêu cầu thực hiện trao đổi huyết thanh và globulin miễn dịch đường tĩnh mạch (IVIG). Mặc dù đắt tiền, nhưng những phương pháp điều trị này đã được chứng minh là có hiệu quả.
Khám sàng lọc người hiến
Các bác sĩ sẽ sàng lọc người hiến tặng để tìm ung thư và nhiễm trùng có thể lây lan trong khi cấy ghép. Các cơ quan bị ung thư không được hiến. Nếu người hiến tặng đã bị ung thư ở một cơ quan khác, bác sĩ sẽ đánh giá xem liệu các tế bào ung thư vẫn còn hiện diện hoặc nếu chúng có thể di căn đến cơ quan cần cấy ghép. Trong trường hợp nhiễm khuẩn, nếu người hiến được điều trị đầy đủ, việc cấy ghép nội tạng là an toàn. Tuy nhiên, người nhận có thể cần thuốc kháng sinh. Để tìm hiểu xem người hiến tặng có nhiễm virus hay không, bác sĩ có thể yêu cầu xét nghiệm máu, đặc biệt là tìm virus cytomegalovirus (CMV), virus Epstein-Barr (EBV), virus viêm gan B và C, virus gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV) và virus T lymphotropic (HTLV). Một số bệnh nhiễm trùng do virus cytomegalovirus và virus Epstein-Barr không ảnh hưởng đến việc hiến tặng nội tạng. Tuy nhiên, người nhận được yêu cầu phải dùng thuốc kháng virus sau đó.
Đặt câu hỏi cho bác sĩ
Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để tạo câu hỏi
Chia sẻ với bác sĩ các thắc mắc của bạn để được giải đáp miễn phí.
Đăng ký hoặc Đăng nhập để đặt câu hỏi cho bác sĩ!