Nghiệm pháp dây thắt được sử dụng phổ biến trong khoa Cấp cứu của các bệnh viện để phát hiện nhanh tình trạng sốt xuất huyết. Vậy, cụ thể nghiệm pháp dây thắt là gì, cách làm theo hướng dẫn của Bộ Y tế như thế nào và sẽ cho kết quả dương tính trong trường hợp nào?
Mời bạn cùng tìm hiểu qua bài viết dưới đây!
Tìm hiểu chung
Nghiệm pháp dây thắt là gì?
Nghiệm pháp dây thắt là một nghiệm pháp kiểm tra, đánh giá sức bền thành mạch, chủ yếu là thành mao mạch. Nguyên lý của nghiệm pháp dây thắt là cản trở tuần hoàn về tim để làm tăng áp lực trong lòng tĩnh mạch, qua đó làm tăng áp lực mao mạch; sau đó giảm áp lực một cách đột ngột.
Cơ chế nghiệm pháp dây thắt là nếu thành mạch kém bền vững thì hồng cầu sẽ bị đẩy ra khỏi thành mạch gây xuất huyết dưới da với hình thái những chấm xuất huyết nhỏ.
Khi nào bạn cần thực hiện nghiệm pháp dây thắt?
Nghiệm pháp dây thắt được dùng để phát hiện sớm và nhanh dấu hiệu xuất huyết, phân biệt sốt virus và sốt xuất huyết, nhưng không phải đặc hiệu. Nghiệm pháp dây thắt dương tính trong cả những trường hợp nhiễm khuẩn huyết do não mô, bệnh bạch hầu, thương hàn, bệnh sởi, sốt xuất huyết,… hoặc các bệnh gây xuất huyết khác nhưng không kèm sốt.
Bác sĩ sẽ chỉ định thực hiện nghiệm pháp này trong tất cả những trường hợp nghi ngờ suy giảm sức bền thành mao mạch.
Thận trọng
Nghiệm pháp dây thắt có nguy hiểm không?
Nghiệm pháp này tuy đơn giản, dễ tiến hành và không có rủi ro nhưng người bệnh không nên tự ý thực hiện và đưa ra kết luận. Nhân viên y tế cũng có thể mắc một số sai sót có thể ảnh hưởng đến kết quả như:
- Nhầm với các đốm xuất huyết cũ
- Tạo áp lực quá cao (gây đau cho người bệnh) hoặc quá thấp
- Thời gian tạo áp lực chưa đủ.
Quy trình
Những thông tin được cung cấp không thể thay thế cho lời khuyên của các chuyên viên y tế. Hãy luôn tham khảo ý kiến bác sĩ.
Cách làm nghiệm pháp dây thắt
Để thực hiện nghiệm pháp này, người bệnh không cần phải chuẩn bị gì đặc biệt trừ khi có chỉ định riêng từ bác sĩ.
Trước đây, nghiệm pháp dây thắt chỉ đơn giản là dùng dây (bất kỳ loại nào) thắt trong 5 phút ở cánh tay cho đến khi thấy những chấm đỏ xuất hiện. Có rất nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến kết quả chính xác như loại dây thắt, áp lực và cách nhận định nghiệm pháp là dương tính. Do đó, hiện nay, cách làm nghiệm pháp dây thắt được thực hiện theo các bước như sau:
- Kiểm tra đốm xuất huyết trên tay người bệnh. Nếu có cần ghi rõ để phân biệt với các đốm xuất huyết mới xuất hiện sau khi tiến hành thực hiện nghiệm pháp.
- Dùng máy đo huyết áp (huyết áp kế), quấn bao đo trên cánh tay, bơm hơi lên để đo chỉ số huyết áp. Ví dụ, kết quả thu được là 100/70.
- Tiếp tục duy trì bơm vòng bít với áp lực trung bình (lấy trung bình cộng của huyết áp tối đa và huyết áp tối thiểu, ví dụ (100+70)/2 = 85mmHg) trong 10 phút sau đó tháo hơi nhanh và bỏ máy đo huyết áp ra. Thời gian duy trì tối thiểu phải đạt 5-7 phút, nhưng đúng tiêu chuẩn phải là 10 phút.
- Giơ cao tay người bệnh để máu lưu thông bình thường. Đợi khoảng 2 phút và đếm đốm xuất huyết xuất hiện ở vị trí mặt trong cánh tay từ khuỷu tay trở xuống trên 1cm².
Kết quả
Kết quả của nghiệm pháp dây thắt là gì?
Khi quan sát mặt trong cánh tay phần dưới dây thắt và đếm các đốm xuất huyết, tùy số lượng và thời gian xuất hiện cũng như vị trí, ta có các kết quả sau:
- 5-9 đốm/cm²: nghi ngờ/dương tính (+)
- 10-19 đốm/cm²: dương tính (++)
- > 19 đốm/cm²: dương tính (+++)
Các đốm xuất huyết thường có đường kính khoảng một vài milimet, có thể to hơn nhưng không quá 1cm, màu đỏ, phẳng với mặt da. Khi dùng phiến kính ấn hoặc căng da, các đốm xuất huyết vẫn còn và chỉ biến mất trong 2-5 ngày.
Ý nghĩa của nghiệm pháp dây thắt
Những trường hợp có kết quả nghiệm pháp dây thắt dương tính:
- Nếu người bệnh có sốt, cần xét nghiệm thêm các bệnh nhiễm khuẩn như viêm màng não mô cầu, bệnh bạch hầu, thương hàn, bệnh sởi, sốt xuất huyết…
- Nếu người bệnh không sốt, cần tham khảo những trường hợp sau:
- Do thiếu vitamin C, vitamin PP
- Do bệnh miễn dịch, dị ứng, chẳng hạn như viêm thành mạch dị ứng
- Do một số bệnh nội khoa như: lao, đái tháo đường, xơ gan, suy thận,…
- Do thiếu hụt các yếu tố đông máu của huyết tương
- Do bệnh tiểu cầu, chẳng hạn như giảm tiểu cầu nguyên phát, suy nhược tiểu cầu (Glanzmann)
- Do xuất hiện hội chứng đông máu rải rác trong lòng mạch (tùy nhiều nguyên nhân khác nhau)
Kết quả dương tính của nghiệm pháp còn có thể gặp trong ngoại khoa, sản khoa hay các chuyên khoa khác.
Nghiệm pháp dây thắt trong chẩn đoán sốt xuất huyết Dengue
Nếu kết quả nghiệm pháp dây thắt là dương tính và người bệnh có đồng thời 2 dấu hiệu giảm tiểu cầu và cô đặc máu thì được chẩn đoán là sốt xuất huyết Dengue, được phân loại theo WHO như sau:
- Độ I: Người bệnh bị sốt và không có xuất huyết tự nhiên, có thể xảy ra trường hợp tiểu cầu giảm và hematocrit tăng.
- Độ II: Người bệnh bị sốt và xuất huyết tự nhiên (dưới da, niêm mạc, phủ tạng đơn thuần hoặc kết hợp), tiểu cầu giảm, hematocrit tăng.
- Độ III: Tiểu cầu giảm và hematocrit tăng, huyết động không ổn định: mạch lăn tăn, huyết áp kẹt (hiệu số huyết áp tâm thu – huyết áp tâm trương dưới 20mmHg), tay chân lạnh, tinh thần lơ mơ lẫn lộn.
- Độ IV: Tiểu cầu và hematocrit tăng, người bệnh không có mạch ngoại biên, huyết áp 0mmHg.
Tuy nhiên, nghiệm pháp này không hoàn toàn chính xác đến 100% để xác định sốt xuất huyết Dengue. Một số yếu tố cũng có thể ảnh hưởng đến kết quả, chẳng hạn như giai đoạn trước/sau kỳ kinh ở phụ nữ. Bên cạnh đó, những người có tổn thương da do ánh sáng mặt trời thường cũng có mao mạch dễ bị tổn thương, nếu thực hiện có thể cho ra kết quả dương tính.
Sốt xuất huyết Dengue có biểu hiện lâm sàng chủ yếu là sốt cấp diễn kèm theo xuất huyết ở da hoặc niêm mạc và giảm tiểu cầu trong máu. Nghiệm pháp dây thắt có thể dùng để chẩn đoán sớm sốt xuất huyết nhưng nó không phải dấu hiệu đặc hiệu của sốt xuất huyết. Nếu nghi ngờ kết quả của nghiệm pháp thì người bệnh nên làm thêm các xét nghiệm khác để xác định sốt xuất huyết.
[embed-health-tool-heart-rate]