Đối với mẫu nước tiểu bất kỳ, phòng thí nghiệm sẽ đo cả albumin và creatinine, sau đó họ sẽ đi tìm tỷ lệ albumin-và-creatinine trong nước tiểu. Nếu tỉ số này lớn hơn 30 thì gợi ý có bất thường. Với mẫu nước tiểu thu thập trong 24 giờ, phòng thí nghiệm chỉ đo số lượng albumin hiện diện trong nước tiểu. Mặc dù cả hai xét nghiệm đều có hiệu quả, nhưng mẫu nước tiểu bất kỳ sẽ dễ lấy hơn so với mẫu nước tiểu 24 giờ và thường là đủ để chẩn đoán và theo dõi bệnh thận.
Xét nghiệm GFR
Điều dưỡng sẽ lấy máu của bạn, gửi đến phòng thí nghiệm để phân tích và tính toán thận lọc được bao nhiêu máu mỗi phút, được gọi là tốc độ lọc cầu thận ước tính (estimated glomerular filtration rate, viết tắt là: eGFR). Kết quả của xét nghiệm có thể nằm trong các trường hợp sau:
- eGFR 60 hoặc cao hơn là ở mức bình thường
- eGFR dưới 60 có thể báo hiệu tổn thương thận
- eGFR 15 hay thấp hơn có thể báo hiệu suy thận giai đoạn cuối.
Theo dõi huyết áp cao
Huyết áp là áp lực của máu đẩy vào thành mạch máu khi tim bơm ra máu. Huyết áp cao, còn gọi là tăng huyết áp, là sự gia tăng lực ép máu vào các mạch máu di chuyển khắp cơ thể.
Huyết áp được ghi bằng hai số cách nhau bởi một dấu gạch chéo. Ví dụ, một kết quả huyết áp 120/80 nghĩa là “120 trên 80.” Số đầu tiên được gọi là huyết áp tâm thu, đại diện cho áp lực khi tim đập và đẩy máu qua các mạch máu. Số thứ hai được gọi là huyết áp tâm trương, đại diện cho áp lực khi tim nghỉ và các mạch máu thư giãn giữa nhịp tim.
Huyết áp của một người được coi là bình thường nếu nó nằm dưới 120/80. Tiền cao huyết áp là áp lực tâm thu 120–139 hoặc huyết áp tâm trương từ 80–89. Cao huyết áp là áp lực tâm thu là 140 hoặc cao hơn hoặc huyết áp tâm trương là 90 hoặc cao hơn.
Cao huyết áp được chẩn đoán bằng cách đo huyết áp lặp đi lặp lại nhiều lần mỗi khi bạn đi khám bác sĩ, và ở lần nào cũng cho thấy huyết áp liên tục trên 140/90. Bác sĩ đo huyết áp bằng máy đo có băng quấn ở cánh tay. Mọi người cũng có thể mua băng quấn huyết áp ở những nhà thuốc hoặc tiệm dụng cụ y khoa để theo dõi huyết áp tại nhà.