Các chủng chlamydia dễ dàng được xác định và phân biệt nhờ các xét nghiệm dựa trên DNA (DNA – based tests) như:
- Xét nghiệm khuếch đại axit nucleic (Nucleic acid amplification tests – NAAT)
- Xét nghiệm phản ứng chuỗi polymerase (PCR)
- Xét nghiệm lai axit nucleic (Nucleic acid hybridization tests)
- Xét nghiệm hấp thụ miễn dịch liên kết với enzyme (Enzyme-linked immunosorbent assay – ELISA, còn có tên khác là Enzyme Immuno Assay – EIA
- Xét nghiệm kháng thể huỳnh quang trực tiếp (Direct fluorescent antibody test)
Điều trị nhiễm khuẩn chlamydia trachomatis

Khi bị nhiễm vi khuẩn chlamydia trachomatis, bạn sẽ được điều trị bằng các loại thuốc kháng sinh như:
Trong đó, hai loại thuốc phổ biến nhất là azithromycin và doxycycline. Hai loại này được cho là có hiệu quả tương đương với tỷ lệ thành công lần lượt là 97% và 98%.
Đối với trường hợp người bệnh là thai phụ, bác sĩ sẽ kê đơn các loại thuốc azithromycin, amoxicillin và erythromycin.
Trong quá trình mang thai, xét nghiệm được thực hiện lại 3 tuần sau khi điều trị. Nếu nguy cơ tái nhiễm trùng cao thì việc theo dõi, tầm soát cần được lặp lại trong suốt thai kỳ.
Nếu nhiễm trùng đã tiến triển, lan rộng ở cơ quan sinh sản và chứng viêm vùng chậu đã phát triển thì có khả năng ống dẫn trứng cũng đã bị tổn thương. Trong hầu hết các trường hợp, nhiễm chlamydia trachomatis sau đó được điều trị ngoại trú bằng azithromycin hoặc doxycycline.
Nếu mẹ bầu bị bệnh chlamydia, trẻ sinh ra có khả năng bị nhiễmvi khuẩn chlamydia trachomatis ở mắt và dễ tiến triển thành viêm phổi. Lúc này nên điều trị cho người mẹ và phương pháp được đề xuất là dùng erythromycin đường uống, đồng thời theo dõi các triệu chứng hẹp môn vị (IHPS) ở trẻ sơ sinh dưới 6 tuần tuổi.
Đặt câu hỏi cho bác sĩ
Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để tạo câu hỏi
Chia sẻ với bác sĩ các thắc mắc của bạn để được giải đáp miễn phí.
Đăng ký hoặc Đăng nhập để đặt câu hỏi cho bác sĩ!