N- và C-telopeptide liên kết chéo (NTx và CTx) là các phân đoạn protein có trong collagen type 1 chiếm gần 90% của nền xương. Các đoạn cuối C và N của các protein này là liên kết chéo để cung cấp độ bền xương. Khi xương bị phá huỷ, CTx và NTx được đưa vào máu và đào thải qua nước tiểu. Các xét nghiệm CTx và NTx cho thấy đáp ứng sớm với điều trị chống tái hấp thụ (trong vòng 3-6 tháng). Mức bình thường của xét nghiệm thay đổi theo các phương pháp thử nghiệm khác nhau.
Propeptide procollagen tuýp 1 tận cùng bằng amino (P1NP), giống như NTx, tỷ lệ thuận với lượng collagen mới được sản xuất bởi nguyên bào xương. Nồng độ P1NP tăng lên ở những bệnh nhân mắc các bệnh xương khác nhau gây ra bởi sự gia tăng hoạt động tạo xương. P1NP là marker hiệu quả đánh dấu việc hình thành xương và đặc biệt hữu ích để theo dõi các liệu pháp hình thành xương và các liệu pháp kháng tái hấp thụ xương.
Osteocalcin, hoặc protein G1A xương (BGP), là một protein không collagen trong xương và được tạo ra bởi nguyên bào xương. Protein này liên quan đến quá trình tiêu xương và tạo xương; và protein này là một chỉ số tốt về chuyển hóa xương. Nồng độ BGP huyết thanh tương quan với sự hình thành xương và sự tiêu xương.. Tăng mức Osteocalcin liên quan tới mất mật độ khoáng xương. BGP là protein phụ thuộc vào Vitamin K. Vitamin K giảm dẫn đến giảm BGP. Điều này giúp giải thích quá trình sinh lý của quá trình loãng xương do thiếu vitamin K.
Pyridinium (PYD) liên kết chéo được tạo thành từ sự trưởng thành của collagen type 1 trong quá trình hình thành xương. Trong tiêu xương, những PYD liên kết chéo được phóng thích tự do.
Phophatase kiềm đặc trưng của xương (BSAP) là một đồng enzyme với phosphatase kiềm và được tìm thấy trong màng tế bào của tế bào tạo xương. Do đó, enzyme này là một chỉ số về tình trạng trao đổi chất của tế bào tạo xương và hình thành xương.
Những chất đánh dấu trong chu chuyển xương không thể chỉ ra nguy cơ gãy xương chính xác như đo mật độ xương. Những chất đánh dấu trong này có thể được sử dụng để giám sát các hoạt động và điều trị bệnh Paget, cường cận giáp, và ung thư di căn xương. Những chất đánh dấu trongnày thường cao ở trẻ em là do tăng tái hấp thu xương kết hợp với tăng trưởng và tái cấu trúc đầu các xương dài. Nồng độ các chất đánh dấu trong đạt tới đỉnh cao vào khoảng 14 tuổi và sau đó giảm dần. Estrogen là một chất ức chế gây tiêu xương mạnh, do đó mật độ xương bắt đầu giảm ngay sau khi bắt đầu mãn kinh. Do đó, các biểu thị đố tăng lên sau thời kỳ mãn kinh. Hầu hết các xét nghiệm nước tiểu dùng xét nghiệm thải creatinine để làm chuẩn.
Khi nào bạn nên thực hiện xét nghiệm chất đánh dấu trong luân chuyển xương
Xét nghiệm này thường đi kèm với một bộ các xét nghiệm khác như đo nồng độ canxi trong máu, nồng độ Vitamin D, chức năng tuyến giáp và hormone tuyến cận giáp.
Xét nghiệm này thường được chỉ định khi bác sĩ phát hiện ra xương của bạn đang bị loãng dần bằng các xét nghiệm đo mật độ xương, hoặc khi bạn bị gãy xương mà không phải là do té ngã hay va chạm.
Ngoài ra các xét nghiệm này còn được làm lại khoảng 3 đến 6 tháng sau khi điều trị để xem phương pháp điều trị có hiệu quả hay không.
Điều cần thận trọng
Bạn nên biết những gì trước khi thực hiện xét nghiệm chất đánh dấu trong luân chuyển xương?
Xét nghiệm chất đánh dấu trongqua nước tiểu của một người có thể chênh lệch nhau tới 30% cho dù làm xét nghiệm trong cùng một ngày. Thu thập mẫu nước tiểu bằng cách bỏ nước tiểu đầu và lấy nước tiểu thứ hai vào buổi sáng có thể giảm thiểu sự sai lệch.
Đặt câu hỏi cho bác sĩ
Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để tạo câu hỏi
Chia sẻ với bác sĩ các thắc mắc của bạn để được giải đáp miễn phí.
Đăng ký hoặc Đăng nhập để đặt câu hỏi cho bác sĩ!