backup og meta
Chuyên mục
Công cụ
Hỏi bác sĩ
Lưu
Mục lục bài viết

Tự gây thương tích

Tác giả: Bác sĩ Đinh Thị Mai Hồng · Đa khoa · Bệnh viện Đại học Y dược Hà Nội


Ngày cập nhật: 11/05/2020

Tự gây thương tích

Tìm hiểu chung

Tự gây thương tích là gì?

Tự gây thương tích không có ý tự sát, thường được gọi đơn giản là tự gây thương tích, là hành vi cố ý làm tổn hại đến cơ thể như cắt hoặc gây bỏng cho bản thân. Tự gây thương tích được hiểu là cách để đối phó với nỗi đau tinh thần, sự giận dữ và thất vọng.

Tự gây thương tích có thể mang lại một cảm giác nhẹ nhõm và giải tỏa căng thẳng nhất thời, nhưng lại theo sau bởi một cảm giác tội lỗi, xấu hổ và đau đớn. Mặc dù bạn không chủ tâm gây ra các chấn thương đe dọa tính mạng, tự gây thương tích có thể dẫn đến các hành động rất nghiêm trọng gây tử vong.

Để đối phó với tình trạng tự gây thương tích một cách lành mạnh. Bạn nên tìm hiểu những phương pháp điều trị phù hợp.

Tự gây thương tích thường xảy ra một cách riêng tư, là một hành vi có kiểm soát, xảy ra thường xuyên và thường để lại tổn thương trên da sau khi thực hiện. Ví dụ về tự gây thương tích bao gồm:

  • Cắt (vết cắt hoặc vết trầy xước nghiêm trọng gây ra bởi một vật dụng sắc bén)
  • Gãi
  • Đốt (với diêm, thuốc lá hoặc các vật nóng, nhọn như dao)
  • Khắc chữ hoặc biểu tượng trên da
  • Đấm đá
  • Đâm vào da với các vật sắc nhọn
  • Kéo giật tóc
  • Đâm chọc hoặc can thiệp không ngừng vào các vết thương đang lành

Cánh tay, chân và phía trước thân người là mục tiêu thường xuyên nhất của người tự gây thương tích. Tuy nhiên, có thể nói bất kỳ khu vực nào của cơ thể cũng có khả năng bị gây thương tích. Những người tự gây thương tích có thể sử dụng nhiều cách để làm hại bản thân.

Khó chịu có thể khiến bạn làm hại bản thân. Nhiều người tự gây thương tích chỉ một vài lần và sau đó dừng lại. Tuy nhiên, đối với những người khác, hành động tự gây thương tích có thể trở nên lâu dài, hành vi lặp đi lặp lại.

Mặc dù hiếm gặp, nhưng vẫn có trường hợp một số người trẻ có thể tự làm tổn thương ở những nơi công cộng hoặc theo nhóm để tạo sự gắn kết hoặc cho những người khác thấy rằng họ có kinh nghiệm chịu đau đớn.

Mức độ phổ biến của tự gây thương tích như thế nào?

Kết quả thống kê cho thấy tự gây thương tích là một hiện tượng đáng lo ngại và là một mối nguy hiểm thực sự ở những người dễ bị tổn thương. Nữ giới chiếm 60% trong tổng số những người có các hành vi tự gây thương tích. Khoảng 50% những người tự gây hại cho bản thân bắt đầu ở tuổi 14 và tiếp tục vào độ tuổi 20. Hãy thảo luận với bác sĩ để biết thêm thông tin.

Triệu chứng thường gặp

Đâu là những dấu hiệu và triệu chứng của tự gây thương tích?

Các triệu chứng phổ biến của tự gây thương tích là:

  • Nhiều sẹo
  • Các vết cắt mới, vết trầy xước, vết bầm tím hoặc các vết thương khác
  • Chà xát quá nhiều vào một chỗ để tạo ra bỏng
  • Giữ các vật sắc nhọn trên tay
  • Mặc áo dài tay hoặc quần dài ngay cả trong thời tiết nắng nóng
  • Gặp khó khăn trong các mối quan hệ cá nhân
  • Hay đặt các câu hỏi về danh tính cá nhân như: “Tôi là ai?’, “Tôi đang làm gì ở đây?’
  • Hành vi và cảm xúc không ổn định, tính cách bốc đồng và không thể đoán trước được
  • Hay đề cập đến sự bất lực, tuyệt vọng hay vô dụng

Bạn có thể gặp các triệu chứng khác không được đề cập. Nếu bạn có bất kỳ thắc mắc nào về các dấu hiệu bệnh, hãy tham khảo ý kiến bác sĩ.

Khi nào bạn cần gặp bác sĩ?

Nếu bạn đang gây tổn thương cho chính mình dù không đáng kể hoặc nếu bạn có những suy nghĩ muốn làm tổn hại đến bản thân, hãy tìm cách để được giúp đỡ. Bất kỳ hình thức tự gây thương tích nào cũng cần được chia sẻ để tìm cách giải quyết.

Nói chuyện với một người nào đó mà bạn tin tưởng, ví dụ như một người bạn, người yêu, dịch vụ chăm sóc sức khỏe hoặc thầy cô giáo – những người có thể giúp bạn thực hiện các bước đầu tiên để điều trị thành công. Bạn có thể sẽ cảm thấy xấu hổ và bối rối về hành vi của mình, thế nhưng khi chia sẻ vấn đề của mình, bạn chắc chắn sẽ nhận được nhiều sự giúp đỡ, chăm sóc một cách thật lòng và không phán xét.

Nếu có một người bạn hoặc người thân tự gây thương tích, bạn có thể bị sốc và sợ hãi. Tuy nhiên, bạn cần nói chuyện về vấn đề này một cách nghiêm túc. Tự gây thương tích là một vấn đề quá lớn không thể bỏ qua hoặc đối phó một mình. Bạn có thể tham khảo một số cách sau đây:

  • Nếu đó là con của bạn, bạn có thể tham khảo ý kiến bác sĩ nhi khoa hoặc các chuyên gia chăm sóc sức khỏe khác, những người có thể cung cấp những nhìn nhận ban đầu về vấn đề này hoặc giới thiệu bạn đến một chuyên gia tâm lý. Bạn không nên la mắng, đe dọa hoặc buộc tội con mà hãy thể hiện sự quan tâm của mình.
  • Nếu đó là bạn cùng trang lứa, bạn có thể gợi ý bạn của bạn nên nói chuyện với cha mẹ, giáo viên, cố vấn ở trường học hay một người lớn đáng tin cậy.
  • Nếu đó là người lớn, bạn nên nhẹ nhàng khuyến khích họ tìm cách điều trị sức khỏe và tinh thần.

Khi nào bạn cần được giúp đỡ khẩn cấp?

Nếu bạn đã thực hiện những hành vi tổn thương nghiêm trọng gây đe dọa đến tính mạng của mình hoặc nếu bạn nghĩ rằng mình có thể gây ra tổn thương cho bản thân hoặc cố gắng tự tử, hãy gọi số 115 hoặc số cấp cứu địa phương ngay lập tức.

Hãy xem xét các lựa chọn sau đây nếu bạn đang có những suy nghĩ tự tử:

  • Gọi chuyên gia sức khỏe tâm thần.
  • Gọi đường dây nóng về tự sát.
  • Tìm sự giúp đỡ từ các bác sĩ.
  • Tiếp cận với bạn bè hoặc người thân.
  • Liên hệ với thầy cô giáo, cán bộ công nhân viên nhà trường.

Nguyên nhân

Nguyên nhân nào gây ra tự gây thương tích?

Trong hầu hết các trường hợp, tự gây thương tích giúp họ đối phó với các vấn đề cảm xúc thái quá có thể gây ra do:

  • Các vấn đề xã hội như bị bắt nạt, gặp khó khăn tại nơi làm việc hay trường học, mối quan hệ khó khăn với bạn bè hoặc gia đình, trong quá trình chấp nhận giới tính thật của bản thân hoặc đối phó với các kỳ vọng văn hóa như một cuộc hôn nhân sắp đặt
  • Đã từng có những chấn thương về lạm dụng thể chất hoặc tình dục, “sự ra đi” của một thành viên gần gũi trong gia đình, bạn bè hoặc bị sẩy thai
  • Nguyên nhân tâm lý, ví dụ như suy nghĩ quá nhiều hoặc nghe giọng nói thúc giục họ tự hại, mất kết nối (mất kết nối với bản thân và với môi trường xung quanh) hoặc rối loạn nhân cách ranh giới

Những vấn đề này có thể dẫn đến sự dồn nén cảm xúc mãnh liệt như tức giận, cảm giác tội lỗi, tuyệt vọng và hận thù. Những người này có thể không biết dựa vào ai để được giúp đỡ và tự gây hại trở thành một cách để giải phóng những cảm xúc bị dồn nén.

Hội chứng ngược đãi bản thân có liên quan đến lo lắng và trầm cảm. Những tình trạng sức khỏe tinh thần này có thể ảnh hưởng đến tất cả mọi người ở mọi lứa tuổi. Hội chứng này cũng có thể biểu hiện bởi những hành vi chống đối xã hội như hành vi sai trái ở trường học hoặc gây rắc rối với cảnh sát.

Nhiều người không muốn kết thúc cuộc sống của họ mặc dù khả năng họ đối diện với nguy cơ thiệt mạng khi tự gây thương tích là rất cao. Trong thực tế, tự gây thương tích có thể giúp họ đối phó với cảm xúc buồn khổ, vì vậy họ không cảm thấy cần phải tự sát.

Nguy cơ mắc phải

Những yếu tố nào làm tăng nguy cơ mắc tự gây thương tích?

Có rất nhiều yếu tố nguy cơ gây tự gây thương tích như:

  • Tuổi tác. Hầu hết những người tự gây thương tích là thanh thiếu niên và người trẻ tuổi, mặc dù những người trong nhóm tuổi khác cũng có thể có tự gây hại. Tự gây thương tích thường bắt đầu ở đầu tuổi thiếu niên, khi cảm xúc không ổn định và thanh thiếu niên phải đối mặt với nhiều áp lực với bạn bè, sự cô đơn và xung đột với cha mẹ hoặc những nhân vật có sức ảnh hưởng.
  • Có bạn là người tự gây hại. Những người có bạn cố ý gây hại cho bản thân có nhiều khả năng tự gây hại cho mình.
  • Các vấn đề cuộc sống. Một số người tự gây hại bản thân là những người bị bỏ rơi hoặc bị lạm dụng (tình dục, thể chất hoặc tinh thần) hoặc trải qua những sự kiện đau buồn khác. Họ có thể là những người lớn lên và sống trong một môi trường gia đình không bình thường hoặc họ có thể luôn đặt câu hỏi về danh tính cá nhân và xu hướng tình dục của mình. Một số người tự gây thương tích bị cô lập về mặt xã hội.
  • Các vấn đề sức khỏe tinh thần. Người tự gây hại thường hay phê bình bản thân và không biết cách giải quyết các vấn đề. Bên cạnh đó, tự gây thương tích thường kết hợp với một loại rối loạn tâm thần khác như rối loạn nhân cách ranh giới, trầm cảm, rối loạn lo âu, rối loạn căng thẳng sau chấn thương và rối loạn ăn uống.
  • Uống rượu hoặc sử dụng ma túy quá mức. Những người làm hại bản thân thường hành động khi bị sự ảnh hưởng của rượu hoặc các chất có ma túy.

Chẩn đoán và điều trị

Những thông tin được cung cấp không thể thay thế cho lời khuyên của các chuyên viên y tế. Hãy luôn tham khảo ý kiến bác sĩ.

Những kỹ thuật y tế nào dùng để chẩn đoán tự gây thương tích?

Một số người đề nghị được giúp đỡ nhưng một số trường hợp được các thành viên trong gia đình hoặc bạn bè phát hiện. Cũng có trường hợp do đi khám sức khỏe định kỳ và bác sĩ phát hiện thấy các dấu hiệu như các vết sẹo hay các vết thương đang lành.

Không có xét nghiệm nào giúp chẩn đoán hội chứng tự gây thương tích. Chẩn đoán chỉ dựa trên đánh giá về thể chất và tinh thần. Chẩn đoán có thể được yêu cầu thẩm định bởi bác sĩ tâm lý với kinh nghiệm trong điều trị tự gây thương tích.

Bác sĩ tâm lý cũng có thể đánh giá các bệnh tâm thần khác có thể liên quan đến tự gây thương tích như rối loạn trầm cảm hoặc tính cách. Trong các trường hợp này, việc thẩm định có thể bao gồm các công cụ bổ sung như bộ câu hỏi hoặc bài kiểm tra tâm lý.

Những phương pháp nào dùng để điều trị tự gây thương tích?

Không có một cách tốt ưu nào để điều trị hành vi tự gây thương tích, nhưng bước đầu tiên cần làm là chia sẻ với ai đó để nhận được sự giúp đỡ. Điều trị dựa trên các vấn đề cụ thể và tình trạng sức khỏe tinh thần có liên quan như trầm cảm.

Xử lý hành vi tự gây thương tích có thể mất thời gian, đòi hỏi nhiều nỗ lực và mong muốn hồi phục của bản thân. Bởi vì tự gây thương tích có thể trở thành vấn đề nan giải trong cuộc sống của bạn, bạn cần được điều trị với một chuyên gia sức khỏe tâm thần có kinh nghiệm trong lĩnh vực tự gây thương tích.

Nếu hành vi tự gây thương tích có liên quan đến một chứng rối loạn sức khỏe tinh thần như trầm cảm hoặc rối loạn nhân cách ranh giới, quá trình điều trị cần tập trung vào rối loạn đó cũng như các hành vi tự gây thương tích.

Tâm lý trị liệu

Được biết đến như một liệu pháp nói chuyện hoặc tư vấn tâm lý, liệu pháp tâm lý có thể giúp bạn:

  • Xác định và quản lý các vấn đề tiềm ẩn kích hoạt hành vi tự gây thương tích
  • Học các kỹ năng quản lý nỗi đau tốt hơn
  • Tìm hiểu cách điều chỉnh cảm xúc
  • Tìm hiểu cách thúc đẩy hình ảnh bản thân
  • Phát triển các kỹ năng để cải thiện mối quan hệ và các kỹ năng xã hội
  • Phát triển các kỹ năng giải quyết vấn đề sức khỏe

Một số loại liệu pháp tâm lý cá nhân có thể hữu ích như:

  • Liệu pháp hành vi nhận thức giúp bạn xác định niềm tin và hành vi tiêu cực, không lành mạnh từ đó thay thế chúng bằng những suy nghĩ tích cực.
  • Hành vi biện chứng trị liệu, một loại hình thức tâm lý trị liệu, dạy các kỹ năng về hành vi nhằm giúp bạn chịu được đau khổ, quản lý hoặc điều chỉnh các cảm xúc và cải thiện các mối quan hệ của bạn với người khác.
  • Trị liệu tâm động tập trung vào việc xác định những kinh nghiệm đã trải qua trong quá khứ, những ký ức ẩn giấu hoặc các vấn đề cá nhân gốc rễ của những khó khăn về chuyện tình cảm. Phương pháp trị liệu này có thể được hướng dẫn thực hiện bởi một chuyên gia trị liệu.
  • Phương pháp trị liệu dựa trên định tâm, giúp bạn sống trong hiện tại, cảm nhận một cách thích hợp những suy nghĩ và hành động của những người xung quanh để giảm sự lo âu, trầm cảm và cải thiện trạng thái hạnh phúc tổng quan.

Ngoài các buổi trị liệu cá nhân, liệu pháp gia đình hoặc liệu pháp nhóm cũng được khuyến khích.

Các loại thuốc

Không có thuốc để điều trị đặc hiệu cho hành vi tự gây thương tích. Tuy nhiên, nếu bạn được chẩn đoán mắc phải những vấn đề về sức khỏe tinh thần như trầm cảm hoặc rối loạn lo âu, bác sĩ có thể kê toa thuốc chống trầm cảm hoặc các thuốc khác để điều trị các rối loạn tiềm ẩn liên quan đến tự gây thương tích. Điều trị những rối loạn này có thể giảm sự thôi thúc làm tổn thương chính mình.

Nhập viện tâm thần

Nếu bạn làm tổn thương bản thân nghiêm trọng hoặc lặp đi lặp lại, bác sĩ có thể khuyên bạn nên nhập viện để được chăm sóc tâm thần. Nhập viện trong thời gian ngắn hạn có thể cung cấp một môi trường an toàn và điều trị chuyên sâu hơn cho đến khi bạn vượt qua giai đoạn khủng hoảng. Chương trình điều trị ngoại trú cũng có thể là một lựa chọn.

Chế độ sinh hoạt hợp lý

Những thói quen sinh hoạt nào giúp bạn quản lý tự gây thương tích?

Lối sống và các biện pháp khắc phục tại nhà sau có thể giúp bạn đối phó với tự gây thương tích:

  • Tuân thủ kế hoạch điều trị. Bạn nên giữ đúng hẹn điều trị và dùng thuốc theo toa hướng dẫn.
  • Nhận ra những tình huống hoặc những cảm xúc có thể kích hoạt mong muốn tự làm hại. Lên một kế hoạch cho những cách làm dịu, đánh lạc hướng bản thân hoặc nhận sự hỗ trợ có thể giúp bạn sẵn sàng đối mặt với ham muốn tự gây hại.
  • Bạn nên yêu cầu giúp đỡ khi cần thiết. Bạn hãy lưu số điện thoại của bác sĩ tâm lý và chia sẻ tất cả các sự cố liên quan đến tự gây thương tích. Xác định một thành viên đáng tin cậy trong gia đình hoặc bạn bè là người bạn sẽ liên lạc ngay lập tức nếu bạn có một ham muốn tự gây thương tích hoặc nếu hành vi tự hại tái phát.
  • Bạn nên học cách chăm sóc bản thân mình như luyện tập thể dục, thể thao và ăn uống lành mạnh. Hãy hỏi bác sĩ để được tư vấn nếu bạn có vấn đề về giấc ngủ vì đây là vấn đề có thể ảnh hưởng đáng kể đến hành vi của bạn.
  • Tốt hơn hết, bạn nên tránh uống rượu và các loại thuốc kích thích. Những thứ này ảnh hưởng đến khả năng đưa ra quyết định sáng suốt của bạn và có thể đặt bạn vào nguy cơ tự gây thương tích.
  • Bạn nên biết cách chăm sóc các vết thương của mình khi gây thương tích cho bản thân hoặc tìm kiếm sự điều trị y tế nếu cần thiết. Gọi một người thân hoặc bạn bè để được giúp đỡ và hỗ trợ. Không dùng chung các dụng cụ dùng để gây thương tích, điều này làm tăng nguy cơ mắc bệnh truyền nhiễm.

Nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào, hãy tham khảo ý kiến bác sĩ để được tư vấn phương pháp hỗ trợ điều trị tốt nhất.

Hello Health Group không đưa ra các lời khuyên, chẩn đoán hay các phương pháp điều trị y khoa.

Miễn trừ trách nhiệm

Các bài viết của Hello Bacsi chỉ có tính chất tham khảo, không thay thế cho việc chẩn đoán hoặc điều trị y khoa.

Tác giả:

Bác sĩ Đinh Thị Mai Hồng

Đa khoa · Bệnh viện Đại học Y dược Hà Nội


Ngày cập nhật: 11/05/2020

advertisement iconQuảng cáo
app promote banner

Bài viết này có hữu ích với bạn?

advertisement iconQuảng cáo
advertisement iconQuảng cáo